Nghi thức tụng kinh Vu Lan Báo Hiếu
PHẬT NÓI KINH VU LAN BỒN
Kinh Vu Lan bản tiếng Việt hiện nay thông dụng và bản trong Nghi Thức Tụng Niệm cả hai bản này, đều cùng nằm trong Chánh Tân Tu Đại Tạng, Kinh tập bộ, Tr. 779, số hiệu 0685, 1 quyển, Phật Thuyết Kinh Vu Lan Bồn, Tây Tấn Nhục Chi Tam Tạng Trúc Pháp Hộ dịch. Riêng nghi thức tụng niệm do dịch giả soạn. Đồng thời cũng đã tìm được tên dịch giả bản tiếng Việt. Các bản lưu hành ở hải ngoại hiện nay, đa số đều là bản cũ do vậy không có tên dịch giả. Ngoài ra còn có một bản lượt dịch Tr. 780 b.1, số hiệu 0686, 1 quyển, Phật Thuyết Báo Ân Phụng Bồn kinh còn gọi Báo Tượng Công Đức Kinh, Thất dịch = mất tên người dịch, khoảng thời Đông Tấn.
Kinh Vu Lan báo hiếu là bản kinh thông dụng, phổ biến đối với hết thảy thảy Phật tử, dù theo tông phái nào. Kinh được thường xuyên trì tụng trong mùa Vu Lan tháng Bảy, bao gồm 2 kinh ngắn đều được dịch sang thể thơ kệ, dễ nhớ, dễ đọc tụng.
Bản kinh thứ nhất là kinh Vu Lan Bồn, ghi lại câu chuyện báo hiếu của ngài Mục Kiền Liên và lời dạy của Phật để hàng Phật tử sau này thực hành Vu Lan Pháp hội.
Bản kinh thứ hai là kinh Vu Lan báo ân Cha Mẹ, ghi lại lời dạy của đức Phật về công ơn sâu nặng của cha mẹ và bổn phận hiếu hạnh, đạo làm con. Những ý nghĩa thâm sâu được diễn đạt chi tiết qua các vần thơ kệ rất dễ đi vào lòng người, khiến cho những người con hiếu khi nghe qua không thể không xúc động.
Các bản dịch theo thể thơ kệ này là công trình của Hòa thượng Thích Huệ Đăng, đã từ lâu được đại chúng đón nhận và lưu hành rộng rãi.
NGHI THỨC TỤNG KINH VU LAN BÁO HIẾU
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Ðạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Ðề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác.
(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)
KỲ NGUYỆN
Nay chính là ngày chư Tăng kiết hạ đem đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng con một dạ kính thành, cúng dường trì tụng đem công đức này, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam Bảo, Ðức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðức Tiếp dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật, cùng các vị Bồ tát, tịnh Ðức chúng Tăng, từ bi gia hộ, cho Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp độ.
Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo (3 lần)
(Ðứng dậy cắm hương và đọc bài kệ Tán Thán Phật)
TÁN THÁN PHẬT
Ðấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loại
Quy y trọn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
QUÁN TƯỞNG
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.
Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng.
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện Quy y.
ÐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, Thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Ðiều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)
CHÍ TÂM SÁM HỐI
Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sinh trong pháp giới, đều nguyện dứt trừ ba chướng nên quy mạng sám hối. (1 lễ)
Con xưa đã tạo bao nghiệp ác,
Đều vì vô thuỷ tham, sân, si.
Từ thân, miệng, ý phát sinh ra,
Hết thảy con nay đều sám hối.
Bao nhiêu nghiệp chướng sâu nhường ấy,
Thảy đều tiêu diệt sạch làu làu.
Niệm niệm trí soi khắp pháp giới,
Độ hết chúng sinh đều chẳng thoái. (1 lạy)
SÁM HỐI PHÁT NGUYỆN RỒI
Quy mệnh lễ Mục Kiền Liên Bồ tát cùng hết thảy Tam Bảo ở khắp mười phương. (1 lạy)
TÁN LƯ HƯƠNG
Lò hương vừa bén chiên đàn,
Khắp xông Pháp giới đạo tràng mười phương.
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền.
Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3 lần)
CHÚ ÐẠI BI
Nam Mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại bi tâm đà la ni. Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô Yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da bà lô Yết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà đà, ma phạt đặc đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, câu lô câu lô yết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Ma mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha, tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô Yết đế thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án, tất điện đô. Mạn đa ra. Bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
KHAI KINH KỆ
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm
Nguyện tỏ như lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
PHẬT NÓI KINH VU LAN BỒN
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ Viên trung
Mục Liên mới đặng lục thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn
Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giựt của bà
Cơm chưa đưa đến miệng đà
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu
Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục Kiền Liên bi cảm xót thương
Mau mau về chốn giảng đường
Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nàn
Phật mới bảo rõ ràng căn cội
Rằng mẹ ông gốc tội rất râu
Dầu ông thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể ai cầu đặng đâu
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên
Cùng là các bậc thần kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tu tập
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi
Muốn cho cứu được mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng
Pháp cứu tế ta toan giảng nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kiêu Mục thị đến gần
Truyền cho diệu Pháp ân cần thiết thi
Rằm tháng bảy là ngày tự tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu
Lại phải sắm gường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn tinh sạch báu mầu
Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng
Chư Ðại Ðức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Ðặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tựu hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng
Hoặc người đặng lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên giác Thinh văn
Hoặc chư Bồ tát mười phương
Hiện hình làm Sãi ở gần chúng sanh
Ðều trì giới rất thanh rất tịnh
Ðạo đức dày chánh định chơn tâm
Tất cả các bậc Thánh phàm
Ðồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Ðặng cúng dường Tự Tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng đặng bá thiên thọ trường
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa thân về cõi thiên cung
Người thì tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân
Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau này
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Ðịnh tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng
Khi thọ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc than sầu buồn
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan
Mục Liên bạch với Phật rằng
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ tử xuất gia
Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh
Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không
Phật rằng: lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo
Thiện nam tử, Tỳ Kheo nam nữ
Cùng quốc Vương, Thái tử, Ðại thần
Tam công, Tể tướng, bá quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thê tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật Ðà hoan hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Ðựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự Tứ chúng Tăng cúng dường
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thì
Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên
Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dường chư Phật, chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu
Ðệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn
Vừa nghe dứt Pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành
Trước là trả nghĩa sanh thành
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.
Nam Mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
PHẬT NÓI KINH ĐẠI BÁO PHỤ MẪU TRỌNG ÂN
Tôi nghe thế này: Một thời Phật ở trong Tinh Xá, vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà, cùng các Tăng già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người, cùng chư Bồ Tát. Bấy giờ Thế Tôn, cùng với đại chúng, nhân buổi nhàn du, đi về phía nam, thấy đống xương khô, chất cao như núi, Đức Phật Thế Tôn, liền sụp lạy ngay, đống xương khô ấy.
Tôi bạch Phật rằng: Lạy Đức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi, chí tôn, chí quý, Thầy cả ba cõi, Cha lành bốn loài, thiên thượng nhân gian, thẩy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ, đống xương khô kia.
Này A Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia, theo Ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, đã rộng rãi đâu, những sự nghe thấy, đống xương khô ấy, hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, của Ta thân trước, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay Ta, chí thành kính lễ. Ông đem xương này, chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho Ta.
Bạch Đức Thế Tôn! Con xem ở đời, phàm là con trai, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới; Những người con gái, ai cũng nhận ra, đó là giới nữ; người chết quá khứ, xương lẫn lộn nhau, chúng con biết đâu mà phân biệt được.
Đây là lời Phật: Này A Nan con! Về bên nam giới, thì xương sắc trắng, nhắc thấy nặng hơn. Còn như nữ giới, trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình, chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sữa ở trong thân, giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói, thương xót vô cùng, mẹ tôi đã từng, hao mòn như thế, nghĩ mà rơi lệ, liền bạch Phật rằng:
Lạy Đức Thế Tôn! Công ơn cha mẹ, như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Đức Phật, rủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Đức Phật liền dạy: Này A Nan ơi! Về ơn đức mẹ, trong vòng mười tháng, đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không kể xiết:
– Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương, dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng; trưa đã tiêu tan, khó lòng giữ được.
– Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
– Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
– Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
– Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ năm hình, chân tay đầu óc.
– Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tai mũi lưỡi, thân hình và ý.
– Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi, những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
– Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý trí mới đủ, chín khiếu mới thông.
– Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người, ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi, gồm có ba quả: Một là Tu Di, hai là núi Nghiệp, ba là núi Máu, núi này đồng thời, hóa ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần vẹn toàn, mới đến ngày sinh. Nếu con có hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ, nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi, buốt chói từng hồi, khiến đau lòng mẹ, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, mẹ khổ vô cùng, nói sao cho xiết, sinh được thân này, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay!
Phật bảo A Nan: Công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con phải lo báo hiếu. Những gì là mười?
– Một nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
– Hai nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
– Ba nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, quên cả lo âu.
– Bốn nhớ ơn mẹ ta, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngọt, dành dụm cho con.
– Năm nhớ ơn mẹ ta, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
– Sáu nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
– Bảy nhớ ơn mẹ ta, giặt giũ hong phơi, áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi, mẹ đành cam chịu.
– Tám nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một chút không ngơi.
– Chín nhớ ơn mẹ ta, vì sinh nuôi con, mà mẹ cam lòng, tạo bao ác nghiệp.
– Mười nhớ ơn mẹ ta, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không chút nào ngơi.
THỨ NHẤT ƠN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp duyên cùng nợ
Ngày nay mới vào thai
Đầy tháng sinh phủ tạng
Bảy bảy sáu tinh khai
Thân trọng như non Thái
Động tĩnh sợ phong thai
Áo the đành xốc xếch
Gương lược biếng trang đài.
THỨ HAI ƠN: KHI GẦN SINH NỞ
Khi gần ngày sinh nở
Nặng nhọc khổ sở thay
Cưu mang trong mười tháng
Vất vả biết bao ngày
Đứng ngồi và đi lại
Dáng vẻ tựa ngô ngây
Sợ hãi lo cùng lắng
Tử sinh giờ phút này.
THỨ BA ƠN: LÚC SINH NỞ
Mẹ ta khi sinh nở
Thân thể đều mở toang
Tâm hồn như mê mẩn
Máu me chan hòa đầy
Chờ nghe thấy con khóc
Lòng mẹ mừng rỡ thay
Đương mừng lo lại đến
Rầu rĩ ruột gan này.
THỨ BỐN ƠN: ĂN ĐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc
Ăn đắng nói cùng ai
Yêu dấu như vàng ngọc
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con no ấm
Mẹ đói rét cũng vui.
THỨ NĂM ƠN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt
Chỗ ráo để xê con
Hai vú phòng đói khát
Hai tay ủ gió sương
Thâu đêm nằm chẳng ngủ
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ
Lòng mẹ mới được yên.
THỨ SÁU ƠN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Đức mẹ dày như đất
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng
Cha mẹ cũng thế thôi
Chẳng quản câm, mù, điếc
Chẳng hiềm quắp chân tay
Bởi vì con ruột thịt
Trọn đời dạ chẳng khuây.
THỨ BẢY ƠN: TẮM GỘI GIẶT GIŨ
Vốn người có nhan sắc
Lại thêm phấn sáp xông
Mày xanh như liễu lục
Má đỏ tựa sen hồng
Giặt giũ khăn cùng tã
Dáy dơ chẳng quản công
Cốt sao quần áo sạch
Búi tóc gọn là xong.
THỨ TÁM ƠN: ĐI XA LÒNG MẸ NHỚ THƯƠNG
Từ biệt lòng khôn nhẫn
Sinh ly dạ đáng thương
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn quê hương
Ngày đêm thường tưởng nhớ
Sớm tối vẫn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường.
THỨ CHÍN ƠN: VÌ SINH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải bao gian khổ
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo
Mẹ đói rách cũng vui
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người.
THỨ MƯỜI ƠN: MẸ TRỌN ĐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa biển trời
Vắt cạn kiệt dòng sữa
Để cho con tươi cười
Mẹ già hơn trăm tuổi
Vẫn thương con tám mươi
Bao giờ ân oán hết
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi.
Phật bảo A Nan : Ta xem chúng sanh dẫu được làm người, lòng còn ngu muội, chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, đến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô thường, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân này, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặt giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở trời, tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, năm canh vò võ, bệnh con có khỏi, lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vả song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẩu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xảy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi, nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc ! Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân hận, bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dỗ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người, lại hay rong chơi, bị người lừa gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù lao cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách.
Khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị người khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi. Không người mai táng, trương phềnh thối nát, giãi nằng dầm mưa, hài cốt bãi bừa, chó cầy nhai xé !
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai, khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi, nay đây mai đó, cùng bạn vô loài, làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa thu mùa đông, rét run bức bối, chẳng nhìn sớm tối, ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người nom, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng rằng e, sợ kẻ cười chê. Ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời, cha mẹ hết hơi, không hề hối cải.
Đây là con gái, khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo. Khi đã gả bán, về ở nhà người, một ngày một lười, thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ thì lại sơ tình.
Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lìa, làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thường nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi. Công đức cha mẹ vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy đại chúng, nghe Phật nói ra, công đức mẹ cha cao tầy non thái, đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, dập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh mà nói lời này : Khổ thay khổ thay ! Đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối, ngày nay biết hối, thì sự đã rồi, đau đớn lòng tôi, trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật soi xét kẻ phàm, phóng ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được ân đức mẹ cha. Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng bảo đại chúng rằng :
- Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng cha mẹ đi chơi, suốt cả mọi nơi, trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được, công đức mẹ cha kể trong muôn một.
- Ví lại có người, gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
- Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha như thế cũng là chưa trả được ân, kể trong muôn một.
- Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là chưa trả được ân, kể trong muôn một.
- Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
- Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dường chư Phật như thế cũng là chưa trả được ân, kể trong muôn một.
- Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
- Ví lại có người, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp nuốt viên sắt nóng, cháy xém cả mình, như thế cũng là chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ đại chúng nghe Phật nói rồi, trong dạ bồi hồi, ruột đau như cắt, hai hàng nước mắt, tầm tã như mưa mà bạch Phật rằng : Con muốn đền ơn công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo.
Đức Phật liền bảo cặn kẽ mọi lời : Này chúng sanh ơi, muốn đền ơn mẹ, nhất là một lẽ nên chép kinh này, kính biếu gần xa cho nhiều người tụng.
Hai vì cha mẹ, đọc tụng kinh này chuyên cần chớ đoạn.
Ba vì mẹ cha sám hối làm chay.
Bốn vì mẹ cha cúng dường Tam-bảo tùy ý sở dùng.
Năm vì mẹ cha, trong sáu ngày trai phải nên nhớ giữ.
Sáu vì mẹ cha, thường hay bố thí làm mọi việc lành.
Làm được như thế, thực là con hiếu cứu được mẹ cha siêu thăng Cực Lạc phúc đẳng hà sa.
Phật bảo A Nan : Ở trên thế gian những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất. Còn phần linh giác là cái chân thân, phải vào địa ngục. Chính ngục A-tỳ, vuông rộng tứ vi, tám ngàn cây số, bốn mặt lại có tường sắt tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ. Hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân. Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng, những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi vả mẹ cha, cam chịu cực hình. Ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải trăm nghìn kiếp, không phút nào nguôi, hết hạn ấy rồi, lại vào ngục khác.
Đầu đội chậu máu, xe sắt nghiến thây, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : Ví có thiện nam hay là tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in kinh này ra biếu cho người tụng, in được một quyển, được một đức Phật, in được mười quyển, được mười đức Phật, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc. Đây là lời Phật, chớ có coi thường, địa ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bấy giờ A Nan cùng chư đại chúng, trời, rồng, thần, quỷ, dạ xoa, la sát, người cùng phi nhân được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối, con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng : Thà lấy trăm nghìn, vòng dao giáo mác, đâm chém thân này nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng : Thà lấy lưới sắt, quấn chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng : Thà đâm thà chém, thà mổ thà xẻ, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rớt ngoài đường, trong nhà ngoài ngõ, trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Khi ấy A Nan liền bạch Phật rằng: Lạy đức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây, đều muốn tụng trì có được hay chăng. Đức Phật dạy rằng, chúng con nên biết:
Kinh này là kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân Chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy đại chúng, nghe Phật nói rồi, tin kính phụng hành lễ tạ mà lui.
KINH TÂM YẾU
Nói về pháp
BÁT LẠT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Ngài Quán Tự Tại Bồ tát
Tu hành tinh thâm pháp
Bát nhã Ba la mật đa
Thời Ngài soi thấy năm uẩn
Đều không độ thoát hết thảy
Mọi sự khổ ách.
Xá Lợi Tử ơi! Sắc chẳng khác không,
Không chẳng khác sắc,
Sắc tức là không,
Không tức là sắc, thụ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế,
Xá Lợi Tử ơi! Cái tướng chân không
Của các Pháp ấy,
Chẳng sinh, chẳng diệt,
Chẳng bẩn, chẳng sạch,
Chẳng thêm, chẳng bớt,
Bởi thế cho nên trong chân không ấy,
Không có sắc thụ tưởng, hành và thức;
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý;
Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp;
Nó cũng không có, từ nhãn thức giới, đến ý thức giới. Cũng lại không có, từ chi vô minh, đến chi lão tử. Và cũng không có, từ vô minh tận, đến lão tử tận. Không có khổ tập, không có diệt đạo, cũng không có trí, cũng không có đắc, vì không có chi, là sở đắc cả. Các vị Bồ tát, y vào Bát nhã, Ba la mật đa, nên tâm các Ngài, không hề quái ngại.
Vì không quái ngại, nên không sợ hãi, xa lìa được hết, mộng tưởng đảo điên.
Đi thẳng đến nơi, Niết bàn rốt ráo. Chư Phật ba đời, y vào Bát nhã, Ba la mật đa. Nên mới chứng được, A Nút Ta Ra, Sam Da Sam Bồ đề.
Vậy biết Bát nhã, Ba la mật đa, là chú Đại thần, là chú Đại minh, là chú Vô thượng, là chú Vô đẳng đẳng, trừ hết mọi khổ, đúng thật chẳng sai. Nên lại nói cả, bài chú Bát nhã, Ba la mật đa. Bài chú ấy là:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. Ma ha Bát nhã Ba la mật đa. (3 lần)
CHÂN NGÔN QUYẾT ĐỊNH VÃNG SANH
Nam mô A di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha, A di rị độ bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)
BÀI TÁN THÁN PHẬT A DI ÐÀ
Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán
Ðức Di Ðà vô hạn lợi sanh
Bốn mươi tám nguyện viên thành
Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời.
Kim sắc tướng muôn ngàn công đức
Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng
Bạch hào hiển hiện phóng quang
Xoay vần chiếu sáng Vi San năm tòa.
Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại
Sáng trong ngần tứ đại hải dương
Hào quang hóa Phật không lường
Hóa chúng Bồ tát số đương hằng hà.
Ðộ chúng sanh liên hoa chín phẩm
Nước Lạc Bang là cảnh Tây phương
Chí thành thập niệm chiêu chương
Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng sanh.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Nam Mô A Di Ðà Phật (108 lần)
Nam Mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ tát (3 lần)
Nam Mô Ðịa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)
Nam Mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)
SÁM VU LAN
Ðệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm vũ huy hoàng
Ðốt hương đảnh lễ
Mười phương tam thế
Phật, Pháp, Thánh Hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo
Lòng càng áo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành
Mẹ dày gian khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm no đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ
Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn
Ðem đường học đạo
Ðệ tử ơn sâu chưa báo
Hổ phận kém hèn
Giờ này quỳ trước đài sen
Chí thành cung kính
Ðạo tràng thanh tịnh
Tăng bảo trang nghiêm
Hoặc thừa Tự Tứ
Hoặc hiện tham thiền
Ðầy đủ thiện duyên
Dũ lòng lân mẫn
Hộ niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con
Ðượm nhuần mưa pháp
Còn tại thế:
Thân tâm yên ổn
Phát nguyện tu trì
Ðã qua đời:
Ác đạo xa lìa
Chóng thành Phật quả
Ngưỡng mong các Ðức Như Lai
Khắp cõi hư không
Từ bi gia hộ.
Nam Mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
SÁM MỤC LIÊN
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công.
Ðền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu mẹ khóc la
Ðau lòng thương mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Ðề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! niệm Phật độ mình
Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già
Thích Ca đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho phụ mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời phụ mẫu đã qua
Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thông thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam bảo cầu kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho thí chủ trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Ðề khổ ách hết liền
Ngày Rằm tháng Bảy thành Tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời
Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Ðộ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời.
HỒI HƯỚNG
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
TAM TỰ QUY
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng hết thảy không ngại.
Hòa Nam Thánh Chúng